Xung đột giữa Nga và Ukraine leo thang ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Điều đáng lo ngại là những diễn biến căng thẳng này lại diễn ra vào thời điểm vô cùng nhạy cảm khi thế giới đang cố gắng áp dụng những chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát và phục hồi sau cú sốc đại dịch.
Cuộc chiến nghiêm trọng nhất châu Âu kể từ 1945
Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine vốn đã được coi là cuộc chiến nghiêm trọng nhất ở châu Âu kể từ năm 1945. Những căng thẳng leo thang trong thời gian gần đây được cho là xuất phát từ sự cạnh tranh vị thế và ảnh hưởng địa chính trị giữa Nga và các tổ chức phương Tây do Mỹ cầm đầu kể từ sau chiến tranh lạnh.
Lực lượng Nga đã tiến hành các cuộc không kích, đánh chiếm các căn cứ quân đội và tiến về phía Kyiv khi người dân tháo chạy khỏi thành phố. Các quan chức phương Tây cho biết thủ đô có thể thất thủ bất cứ lúc nào, với việc loại bỏ hệ thống phòng không.
Cuộc chiến này xảy ra sau nhiều tuần căng thẳng không chỉ ảnh hưởng đến an ninh địa chính trị, mà còn đe dọa an ninh năng lượng và an ninh lương thực toàn cầu. Trong khi đó, kinh tế Nga và Ukraine, hai “nhân vật chính” trong “cuộc chơi” địa chính trị này, phụ thuộc đáng kể vào hoạt động thương mại dầu mỏ và xuất khẩu ngũ cốc. Ngày 24/02, giá dầu lần đầu tiên tăng vọt vượt ngưỡng 100 USD/thùng trong thời gian ngắn kể từ 2014, trong khi khí đốt tự nhiên của châu Âu tăng tới 62%.
Ngay sau hành động của Nga, các chính phủ phương Tây đang thực hiện các bước để trừng phạt. Họ nhận thức được rằng làm như vậy, họ có thể nâng cao tác động của xung đột đối với nền kinh tế của chính họ. Tiếp theo sau đó, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã công bố các biện pháp trừng phạt mới nhắm vào các ngân hàng của Nga và khả năng giao dịch bằng đô la của nước này. Biden cũng thừa nhận rằng Mỹ cũng sẽ chịu ảnh hưởng sau công bố khi giá xăng dầu đắt đỏ đang làm xói mòn sự ủng hộ của ông trong lòng các cử tri.
Lạm phát cao và thị trường tài chính hỗn loạn
Đợt bùng phát căng thẳng liên quan đến Ukraine lần này có một mối đe dọa đối với sự tăng trưởng. Các hộ gia đình chi tiêu một phần thu nhập ngày càng lớn cho nhiên liệu và sưởi ấm, đồng thời sẽ chi tiêu ít hơn cho các hàng hóa và dịch vụ khác. Thị trường lao dốc sẽ tạo thêm một lực cản khác, mặt khác còn ảnh hưởng đến sự huy động vốn đầu tư của các công ty.
Đối với các ngân hàng trung ương, thách thức kép bao gồm quản lý giá cả và giữ cho nền kinh tế của họ phát triển sẽ càng khó khăn hơn. Cục Dự trữ Liên bang FED và Ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB đang chuẩn bị thắt chặt chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine có thể buộc họ phải suy nghĩ lại.
Mức độ ảnh hưởng của cuộc xung đột đối với nền kinh tế toàn cầu sẽ phụ thuộc vào độ dài và phạm vi của nó, mức độ nghiêm trọng của các lệnh trừng phạt của phương Tây và khả năng Nga có thể trả đũa. Cũng có khả năng xảy ra những mối bất hòa khác, từ cuộc di cư của người tị nạn Ukraine đến làn sóng tấn công mạng của Nga.
Rủi ro đối với an ninh năng lượng và an ninh lương thực toàn cầu
Nga là nước xuất khẩu dầu lớn thứ hai trên thế giới, sau Saudi Arabia và đang cung cấp khoảng 40% nhu cầu khí đốt trên thị trường Liên minh châu Âu (EU). Về phần mình, Ukraine được hưởng lợi khá nhiều với vai trò là một quốc gia trung chuyển khí đốt Nga.
Mặc dù kể từ năm 2014 tới nay, Nga đã giảm khối lượng khí đốt vận chuyển sang châu Âu qua đường ống đi qua lãnh thổ Ukraine, song ước tính mỗi năm Ukraine vẫn nhận được khoảng 2 tỷ USD phí trung chuyển. Trong khi đó, cả Nga và Ukraine đều là hai “cường quốc ngũ cốc,” chiếm gần 1/3 xuất khẩu lúa mì và lúa mạch và 1/5 thương mại ngô trên thị trường thế giới.
Xung đột lần này diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng năng lượng, lạm phát gia tăng, trong khi các nước đều nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế thời kỳ hậu COVID-19, khiến nhu cầu đối với nhiên liệu, lương thực, nguyên vật liệu ngày càng tăng. Tâm lý lo ngại về nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng khi cuộc xung đột quân sự nổ ra cũng như việc các nước đe dọa trừng phạt lẫn nhau đã đẩy giá cả nhiều mặt hàng lên cao, bao gồm dầu khí và lương thực.
3 kịch bản về tác động kinh tế của cuộc khủng hoảng Ukraine
Kịch bản 1: Nguồn cung dầu và khí đốt đầy đủ
Một kịch bản lạc quan được đặt ra cho thấy nguồn cung dầu và khí đốt không bị gián đoạn, với giá cả ổn định ở mức hiện tại. Các điều kiện tài chính thắt chặt, nhưng không có sự sụt giảm liên tục trên thị trường toàn cầu. Sự lạc quan đó có căn cứ ở các thị trường dầu mỏ sau khi Mỹ và các đồng minh công bố lệnh trừng phạt mới đối với Nga.
“Các biện pháp trừng phạt mà chúng tôi áp đặt vượt quá bất cứ điều gì đã từng được thực hiện”, Biden cho biết hôm thứ Năm. Chúng bao gồm các hình phạt đối với 5 ngân hàng, trong đó có ngân hàng cho vay lớn nhất của Nga là Sberbank, với tổng tài sản là 1 nghìn tỷ USD. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu sẽ hạn chế việc Nga tiếp cận các sản phẩm công nghệ cao và các biện pháp trừng phạt cá nhân nhắm vào giới thượng lưu của đất nước.
Giá năng lượng là kênh chính mà qua đó chiến sự ở Ukraine có tác động ngay lập tức ở xa chiến tuyến. Rủi ro đặc biệt nghiêm trọng ở châu Âu, vì Nga là nhà cung cấp dầu và khí đốt chính. Chi phí năng lượng tăng vọt đã chiếm hơn một nửa tỷ lệ lạm phát kỷ lục của khu vực đồng euro vào tháng Giêng. Hợp đồng khí đốt tự nhiên châu Âu tương lai đạt đỉnh trên 140 EUR/MWh sau khi tăng 62% trong ngày.
Cùng với hiệu ứng dầu mỏ, điều đó có thể khiến lạm phát khu vực đồng euro chạm mức 3% vào cuối năm. Cũng có thể có những tác động lan tỏa khác từ cuộc suy thoái do các lệnh trừng phạt gây ra ở Nga. Nhưng khối có khả năng sẽ thoát khỏi suy thoái và việc tăng lãi suất của ECB vào tháng 12 sẽ vẫn còn hiệu lực.
Tại Mỹ, giá xăng đắt hơn và thắt chặt tài chính vừa phải sẽ cản trở tăng trưởng. Nước này có thể vận chuyển nhiều khí đốt tự nhiên hơn sang châu Âu, làm tăng giá trong nước. Tiêu đề lạm phát CPI có thể vượt 8% trong tháng Hai và cuối năm gần 5%, so với mức đồng thuận 3,3%.
Tuy nhiên, FED có thể sẽ nhìn xa hơn cú sốc giá tạm thời và tiếp tục với kế hoạch bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 3 – mặc dù không quá 50 điểm cơ bản. Chủ tịch FED Cleveland, Loretta Mester, cho biết: “Nếu nền kinh tế có một bước ngoặt bất ngờ, tôi tin rằng sẽ là phù hợp để tăng lãi suất quỹ vào tháng 3 và tiếp theo là các mức tăng tiếp theo trong những tháng tới ”.
Kịch bản 2: Nguồn cung năng lượng bị gián đoạn
Kịch bản thứ hai, nếu xung đột kéo dài, phương Tây có phản ứng cứng rắn hơn và có sự gián đoạn đối với hoạt động xuất khẩu dầu khí của Nga. Điều này sẽ gây ra một cú sốc năng lượng lớn hơn và một đòn giáng mạnh vào thị trường toàn cầu, khiến ECB tăng lãi suất, FED cũng sẽ chậm lại việc thắt chặt lãi suất.
Một số chủ tàu chở dầu đang tránh tiếp nhận dầu thô của Nga cho đến khi họ có các biện pháp trừng phạt rõ ràng hơn. Các đường ống dẫn khí đốt chính chạy qua Ukraine và có thể bị va chạm trong cuộc giao tranh. Ngay cả sự gián đoạn nguồn cung hạn chế cũng có thể làm trầm trọng thêm cú sốc đối với giá năng lượng.
Giá khí đốt duy trì quay trở lại mức 180 EUR/MWh – mức đạt được vào tháng 12/2021 – và giá dầu ở mức 120 USD/thùng có thể khiến lạm phát khu vực đồng euro gần 4% vào cuối năm, làm gia tăng sự siết chặt thu nhập thực tế. Châu Âu có thể sẽ tiếp tục bật đèn, nhưng sẽ có một tác động đáng kể đến GDP. Điều này sẽ thúc đẩy bất kỳ đợt tăng lãi suất nào của ECB vào năm 2023.
Ở Mỹ, kịch bản này có thể đẩy lạm phát lên 9% trong tháng 3 và giữ ở mức gần 6% vào cuối năm. Đồng thời, bất ổn tài chính tiếp tục và nền kinh tế yếu hơn, một phần do suy thoái châu Âu. Nó có thể vượt ra ngoài cú sốc giá tạm thời và tập trung vào rủi ro đối với tăng trưởng. Điều đó sẽ không ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất vào tháng 3, nhưng nó có thể dẫn đến việc tăng lãi suất chậm hơn trong nửa cuối năm.
Kịch bản 3: Nguồn cung khí đốt bị cắt
Đối mặt với các biện pháp trừng phạt tối đa từ Mỹ và châu Âu – như bị cắt khỏi hệ thống thanh toán quốc tế Swift – Nga có thể trả đũa bằng cách cắt dòng khí đốt sang châu Âu.
Các quan chức EU thậm chí còn không tính đến điều này vào năm ngoái khi họ chạy mô phỏng 19 kịch bản để kiểm tra mức độ căng thẳng về an ninh năng lượng của khối. Tuy nhiên, ECB ước tính rằng cú sốc phân bổ khí đốt 10% có thể làm giảm 0,7% GDP của khu vực đồng euro.
Quy mô con số đó lên tới 40% – thị phần khí đốt của châu Âu đến từ Nga – có nghĩa là kinh tế sẽ bị ảnh hưởng 3%. Con số thực tế có thể cao hơn đáng kể, do sự hỗn loạn mà một cuộc khủng hoảng năng lượng chưa từng có như vậy có thể sẽ xảy ra. Điều đó có nghĩa là suy thoái và ECB sẽ không tăng lãi suất trong tương lai gần.
Đối với Mỹ, cú sốc tăng trưởng cũng sẽ khá lớn. Và có thể có những hậu quả khôn lường từ các lệnh trừng phạt tối đa làm gián đoạn hệ thống tài chính toàn cầu, với tác động lan tỏa đối với các ngân hàng Mỹ. Trọng tâm của Fed sẽ chuyển sang duy trì tăng trưởng. Nhưng nếu giá cao hơn dẫn đến kỳ vọng lạm phát tăng cao giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp, thì điều đó sẽ làm nảy sinh tình huống xấu nhất đối với chính sách tiền tệ: cần phải thắt chặt mạnh mẽ ngay cả trong một nền kinh tế yếu kém.
Một số nước như Ả Rập Xê Út và các nước xuất khẩu dầu vùng Vịnh khác có thể được hưởng lợi từ trận chiến. Nhưng đối với hầu hết các thị trường mới nổi vốn đã bị phục hồi chậm hơn thì sự kết hợp giữa giá cả cao hơn và dòng vốn chảy ra có thể giáng một đòn lớn và làm trầm trọng thêm nguy cơ khủng hoảng nợ hậu COVID-19. Thổ Nhĩ Kỳ, một nhà nhập khẩu năng lượng lớn vốn đã có đồng tiền lao dốc và lạm phát tăng vọt trước cuộc khủng hoảng Ukraine, là một ví dụ điển hình.
Khủng hoảng Nga – Ukraine còn có thể gây ra nhiều rủi ro khó xác định khác như các cuộc tấn công mạng của Nga. Tuy nhiên, một điều chắc chắn trong số các nền kinh tế lớn, Nga sẽ là nước chịu đòn lớn nhất.